Kinh tế số là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng…) mà công nghệ số được áp dụng. Phát triển nền kinh tế số được xem là cơ hội nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập, đưa đất nước Việt Nam trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển nền kinh tế số. Nhờ đó, kinh tế số nước ta ngày càng có những bước tiến lớn, hướng đến mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế số hàng đầu tại khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều thách thức trong phát triển kinh tế số ở nước ta hiện nay, trong đó một vấn đề đang đặt ra đó là việc bảo hộ tài sản trí tuệ của các doanh nghiệp – vấn đề cốt lõi để phát triển kinh tế số.
Trong những năm qua, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tại Việt Nam, hoạt động đổi mới sáng tạo ngày càng trở nên đa dạng với nhiều cấp độ khác nhau trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động đổi mới sáng tạo này có thể là triển khai một ý tưởng mới, tạo ra các sáng chế, tác phẩm nghệ thuật hoặc giống cây trồng mới… Dù ở cấp độ, mức độ nào, thì hoạt động đổi mới sáng tạo luôn bắt nguồn từ các ý tưởng. Đây là vấn đề quan trọng và là tiền đề hình thành tài sản trí tuệ của nhân loại, đi kèm với đó là thuật ngữ “sở hữu trí tuệ”. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào việc phát triển, kêu gọi vốn đầu tư mà ít chú trọng đến việc xác lập, bảo hộ, khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Giá trị của quyền sở hữu trí tuệ thường không được chú trọng để tạo ra lợi ích, tuy nhiên, khi quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ pháp lý cũng như nhu cầu về sản phẩm hoặc dịch vụ được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tồn tại trên thị trường, quyền sở hữu trí tuệ khi đó sẽ trở thành tài sản kinh doanh có giá trị. Quyền sở hữu trí tuệ còn giúp nâng cao giá trị và trị giá doanh nghiệp trong mắt của nhà đầu tư và các tổ chức tài chính. Trong trường hợp bán, sáp nhập hoặc mua lại, tài sản trí tuệ có thể làm tăng giá trị doanh nghiệp. Giống như tài sản hữu hình, tài sản trí tuệ cần phải được duy trì sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, được tính toán, định giá, giám sát, quản lý chặt chẽ nhìn nhận chúng như một tài sản kinh doanh có giá trị. Như vậy, nhìn chung, tài sản của doanh nghiệp có thể được chia thành 02 loại: tài sản hữu hình, bao gồm: nhà xưởng, máy móc, cơ sở hạ tầng, tài sản vô hình được tính từ nguồn nhân lực, kỹ thuật, ý tưởng, thương hiệu, kiểu dáng và năng lực đổi mới sáng tạo của công ty. Nếu như tài sản hữu hình là tài sản có ý nghĩa quyết định khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường, thì tài sản vô hình ngày càng trở nên có giá trị hơn tài sản hữu hình khi mà trong thời đại công nghệ 4.0, các nhà xưởng và nhà máy lớn đang dần được thay thế bởi các phần mềm và các ý tưởng đổi mới mạnh mẽ. Và đây được xem như là phần thu nhập chính của công ty và làm gia tăng giá trị của các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Thậm chí trong một số lĩnh vực mà công nghệ sản xuất truyền thống chiếm ưu thế, sự đổi mới sáng tạo không ngừng đang trở thành chìa khóa cho khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và cả thị trường quốc tế. Do đó, tài sản vô hình đóng vai trò quan trọng và doanh nghiệp cần tìm ra cách thức sử dụng cũng như bảo hộ các tài sản vô hình của mình, nếu chúng đủ điều kiện để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đạt được và duy trì các quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, quyền sở hữu trí tuệ có thể đạt được theo các dạng sau đây của tài sản vô hình: sản phẩm và quy trình đổi mới (thông qua sáng chế hoặc giải pháp hữu ích); tác phẩm nghệ thuật, phần mềm máy tính, tập hợp dữ liệu (thông qua bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan); kiểu dáng sáng tạo, bao gồm kiểu dáng hàng dệt may (thông qua kiểu dáng công nghiệp); dấu hiệu phân biệt (chủ yếu thông qua việc bảo hộ nhãn hiệu); các vi mạch (bảo hộ thông qua mạch tích hợp bán dẫn); bí mật thương mại (bảo hộ thông qua thông tin bí mật có giá trị thương mại). Như vậy, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một sự đầu tư tương tự như bảo hộ một nhãn hiệu có uy tín đối với người tiêu dùng. Do đó, việc đầu tư phát triển một tài sản trí tuệ tốt là rất quan trọng trong cạnh tranh với các đối thủ tiềm năng, đó cũng là cách để làm tăng giá trị thị trường và cải thiện lợi nhuận của công ty bạn trong tương lai. Một vấn đề đặc biệt quan trọng bảo hộ pháp lý quyền sở hữu trí tuệ khác là biến các tài sản vô hình thành các tài sản độc quyền dù chỉ trong một thời gian nhất định. Tóm lại, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ làm cho tài sản vô hình “trở nên hữu hình” bằng cách biến chúng thành các tài sản độc quyền có giá trị có thể trao đổi thương mại được trên thị trường. Khi được bảo hộ sở hữu trí tuệ các tài sản vô hình đó sẽ tạo ra giá trị nhất định đối với doanh nghiệp vì khi đó chúng đã trở thành các quyền tài sản mà không thể bị thương mại hóa hoặc sử dụng nếu không có sự cho phép của chủ sở hữu. Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp đã nhận thấy rằng trên thực tế tài sản trí tuệ của họ giá trị hơn tài sản hữu hình của họ. Điều này thường nhận thấy tại các công ty hoạt động trong các lĩnh vực có hàm lượng tri thức và có tính sáng tạo cao hoặc các công ty có tên tuổi lớn hoạt động trong lĩnh vực mang tính tri thức và sáng tạo cao, hoặc các doanh nghiệp có thương hiệu nổi tiếng.
Quyền sử dụng tài sản trí tuệ có thể làm gia tăng dòng tiền vào thu nhập cho doanh nghiệp bằng cách chuyển giao quyền sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ của mình cho bên thứ ba hoặc dùng để thế chấp (các tài sản trí tuệ được kết cấu hợp lý có thể được sử dụng để thế chấp).
Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với tài sản số, trong đó nhấn mạnh cần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tài sản số cũng như các tài sản khác có thể hình thành trong cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và thực hiện thể chế hóa thành quy định pháp luật cụ thể. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số đã thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Báo cáo Đổi mới sáng tạo và đầu tư công nghệ Việt Nam 2023 của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia Việt Nam (NIC) cho biết, năm 2022, mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bởi đại dịch Covid-19, các lĩnh vực Fintech vẫn tiếp tục thu hút đầu tư với mức tăng trưởng mạnh mẽ 248%, chiếm 39% tổng giá trị đầu tư. Vừa qua, tháng 6/2023, tại Hội thảo “Pháp luật về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ ra vướng mắc lớn nhất của các doanh nghiệp đó là chưa mạnh dạn đầu tư, không dám giải ngân vào các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong nước vì sợ rủi ro do khung pháp lý chưa rõ ràng. Thực tế này cũng ảnh hưởng đến việc thu hút được vốn đầu tư nước ngoài… Vì vậy, để phát triển các doanh nghiệp hiện nay, việc làm cần thiết và trước hết là thúc đẩy xây dựng khung pháp lý cao nhất về sở hữu trí tuệ. Tùy vào từng sản phẩm sẽ có hình thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khác nhau. Doanh nghiệp cần xác định đối tượng người mua sản phẩm này là ai, điều gì của sản phẩm là yếu tố giúp khách hàng ra quyết định mua sản phẩm của họ… Doanh nghiệp cần trả lời 1 chuỗi câu hỏi để làm ra một sản phẩm đạt tiêu chuẩn được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, nó góp phần quyết định sản phẩm có thể thành công trên thị trường hay không. Hiện nay, một sản phẩm còn có thể bảo hộ cùng lúc nhiều quyền sở hữu trí tuệ khác nhau. Ví dụ: Hình dáng và đặc điểm chức năng khác biệt về hình dạng sản phẩm có thể được bảo hộ theo sáng chế. Bên cạnh đó, các đặc điểm thẩm mỹ của sản phẩm có thể bảo hộ theo kiểu dáng công nghiệp hoặc quyền tác giả. Trường hợp đáp ứng được những yêu cầu nhất định, có thể được bảo hộ làm nhãn hiệu. Hiện nay, Chính phủ đưa ra nhiều biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tùy vào từng nhóm sản phẩm sẽ có những biện pháp bảo hộ riêng biệt, cụ thể như sau: 1) Các sản phẩm và quy trình sáng tạo có thể được bảo hộ theo sáng chế, giải pháp hữu ích; 2) Các kiểu dáng sáng tạo, gồm cả kiểu dáng dệt may, được bảo hộ theo kiểu dáng công nghiệp; 3) Tên gọi riêng của hàng hóa, dịch vụ được bảo hộ khi đăng ký nhãn hiệu; 4) Mạch bán dẫn được bảo hộ theo thiết kế bố trí hoặc mạch tích hợp bán dẫn; 5) Chỉ dẫn hàng hóa có chất lượng hay danh tiếng nhất định gắn với xuất xứ địa lý được bảo hộ theo chỉ dẫn địa lý; 6) Bí mật thương mại bảo hộ thông tin bí mật có giá trị thương mại; 7) Các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật và văn học, kể cả phần mềm máy tính và sưu tập dữ liệu, được bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở đa số các quốc gia. Tuy nhiên, các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiện nay còn đi kèm với một số điều kiện sau đây:
1) Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009, 2019, 2022);
2) Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan;
3) Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp; việc giới hạn quyền đối với sáng chế thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của Chính phủ;
Tuy nhiên, đến năm 2022, Luật Sở hữu trí tuệ đã sửa đổi như sau: “Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và không được vi phạm quy định khác của pháp luật có liên quan. Tổ chức, cá nhân thực hiện quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không được ngăn chặn, cản trở việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca.”
Hiện nay, một sản phẩm có thể được bảo vệ cùng lúc bởi nhiều quyền sở hữu trí tuệ. Việc sở hữu các sản phẩm được bảo hộ sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh. Căn cứ phát sinh quyền sở hữu trí tuệ như sau:
1) Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký;
2) Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả;
3) Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:
- a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;
- b) Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;
- c) Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;
- d) Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.
4) Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.
Đối tượng có quyền đăng ký sở hữu trí tuệ tại Việt Nam quy định tại Khoản 1 điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi năm 2009, 2019, 2022) quy định quyền sở hữu trí tuệ như sau: Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Như vậy, quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
Cụ thể, Đối tượng có quyền đăng ký sở hữu trí tuệ tại Việt Nam bao gồm: Đối tượng được quyền đăng ký sáng chế: Chủ thể đáp ứng các điều kiện sau đây có quyền đăng ký sáng chế, cụ thể như sau: Sáng chế được tạo ra bằng chính công sức và chi phí của người sáng chế; Tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư kinh phí, các phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác); Cá nhân, tổ chức cùng nhau thực hiện tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra sản phẩm sáng chế đó thì đều có quyền đăng ký; Sáng chế được tạo ra do sử dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật hoặc từ kinh phí của ngân sách nhà nước; Trường hợp sáng chế đó được tạo ra trên cơ sở do Nhà nước hỗ trợ đầu tư toàn bộ từ kinh phí, phương tiện vật chất kỹ thuật thì khi đó quyền đăng ký sáng chế thuộc về Nhà nước; Trường hợp sáng chế đó được tạo ra trên cơ sở do Nhà nước hỗ trợ góp vốn thì một phần quyền đăng ký sáng chế tương ứng với tỷ lệ góp vốn sẽ thuộc về Nhà nước; Trong trường hợp sáng chế được tạo ra trên cơ sở có sự hợp tác, nghiên cứu giữa đơn vị là tổ chức, cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân khác thì một phần quyền đăng ký sáng chế sẽ được tính tương ứng với tỷ lệ đóng góp của cơ quan, tổ chức nhà nước trong việc hợp tác đó.
Đối tượng được quyền nộp đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp: Quyền nộp kiểu dáng, trước hết thuộc về tác giả hoặc người thừa kế hợp pháp của tác giả; Nếu kiểu dáng công nghiệp được tạo ra khi tác giả thực hiện nhiệm vụ do Tổ chức mà tác giả là thành viên giao cho. Hoặc được tác giả tạo ra chủ yếu do sử dụng kinh phí, phương tiện vật chất của Tổ chức, thì quyền nộp đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp đó thuộc về Tổ chức giao việc hoặc Tổ chức cung cấp kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả; Nếu kiểu dáng được tạo ra do tác giả thực hiện Hợp đồng thuê việc với Tổ chức hoặc cá nhân khác, và trong Hợp đồng không có thoả thuận nào khác, thì quyền nộp đơn kiểu dáng công nghiệp thuộc về Tổ chức hoặc cá nhân đã ký Hợp đồng đó với tác giả. Người nộp đơn kiểu dáng công nghiệp có thể chuyển giao quyền nộp đơn, kể cả đơn đã nộp, cho cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác thông qua văn bản chuyển giao quyền nộp đơn.
Đối tượng có quyền nộp đơn đăng ký bản quyền tác giả: Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ quy định về quyền cá nhân, tổ chức đăng ký bản quyền như sau: Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm có thể là cá nhân, pháp nhân trong nước hoặc cá nhân, pháp nhân nước ngoài đều có quyền nộp đơn đăng ký bản quyền tác giả cho tác phẩm của mình tại Cục Bản quyền tác giả; Đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài muốn đăng ký bản quyền tại Việt Nam sẽ không được trực tiếp nộp đơn mà bắt buộc phải ủy quyền cho tổ chức đại diện quyền tác giả nộp đơn đăng ký cho tác phẩm tại Việt Nam.
Đối tượng được quyền đăng ký nhãn hiệu: Theo quy định tại Điều 87 -nLuật sở hữu trí tuệ quy định về quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu như sau: Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp; Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó; Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó; Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hoá, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó; Hai hoặc nhiều tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu để trở thành đồng chủ sở hữu với những điều kiện sau đây: 1) Việc sử dụng nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu hoặc sử dụng cho hàng hoá, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh; 2) Việc sử dụng nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ.
Trên đây là những lý do mà chúng ta cần phải bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhà nước ta cần có những quy định chặt chẽ hơn về pháp luật sở hữu trí tuệ để phù hợp với sự hội nhập hóa ngày càng sâu rộng hiện nay. Đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức rõ tầm quan trọng xây dựng thương hiệu phải gắn với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng, vai trò to lớn không chỉ đối với chủ thể nắm quyền sở hữu, chủ thể sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng mà nó còn liên quan đến sự phát triển của cả quốc gia, dân tộc trong bối cảnh nền kinh tế số đang ngày một phát triển như hiện nay.
Tác giả: ThS. Cao An Khang
Đặc san phát triển kinh tế – xã hội số 5