Pháp nhân thương mại và những quy định có liên quan đến pháp nhân thương mại phạm tội đã được ghi nhận tại BLHS và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS), tuy nhiên,khái niệm về pháp nhân thương mại không được quy định tại hai bộ luật này. Vì vậy, để hiểu đúng về pháp nhân thương mại cần nghiên cứu một số luật khác có liên quan, theo đó, tại Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận chia cho các thành viên. 2. Pháp nhân thương mại bao gồm các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. 3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Như vậy, theo quy định trên thì pháp nhân thương mại trước hết phải là pháp nhân (tức một tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định của Pháp luật; có cơ cấu tổ chức; có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm về tài sản của mình; nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập[1].
1. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, tại Điều 75 BLHS quy định: “pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; 2. hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;3. hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; 4. chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”. Các điều kiện này là tiêu chuẩn để xác định hành vi của pháp nhân và một hành vi được coi là phạm tội phải thỏa mãn cả 4 điều kiện này thì đó mới là hành vi phạm tội của một pháp nhân thương mại. Bên cạnh việc quy định tiêu chuẩn xác định hành vi, pháp luật hình sự còn quy định: “việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân” [2]. Quy định này nhằm phân biệt một cách rõ ràng về trách nhiệm hình sự của hai chủ thể: pháp nhân thương mại và cá nhân, thể hiện tính chặt chẽ, sự phân biệt rõ ràng của pháp luật trong việc thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự của hai chủ thể này
2. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự
Vấn đề phạm vi chịu trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự” [3]. Cụ thể, Điều 76 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định có 33 điều luật mà nếu các hành vi được quy định trong các điều luật này được thực hiện bởi một pháp nhân thương mại thì pháp nhân thương mại đó phải chịu trách nhiệm hình sự, bao gồm: nhóm một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gồm 21 điều luật; nhóm một số tội phạm về môi trường 09 điều luật. Như vậy, theo quy định của BLHS thì pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu trong hai lĩnh vực: tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về môi trường. Ngoài ra, pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiêm hình sự về tội tài trợ khủng bố và tội rửa tiền. Việc quy định về cơ sở, về điều kiện, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội như trên là tiền đề và là nền tảng quan trọng để cơ quan và người có thầm quyền tiến hành tố tụng thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự, điều này cũng có nghĩa là ngoài những tội phạm được quy định trong phạm vi này, pháp nhân thương mại không phải chịu trách nhiệm hình sự về các loại tội phạm khác và cá nhân nếu thực hiện những hành vi vi phạm đó dù đảm bảo điều kiện hành vi của pháp nhân thương mại thì phải chịu trách nhiệm hình sự cá nhân.
3. Quy định việc tham gia tố tụng của pháp nhân thương mại phạm tội
Khi một pháp nhân thương mại bị Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: mọi hoạt động tố tụng hình sự của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng [4]. Đồng thời quy định: Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 435 Bộ luật Tố tụng hình sự.
4. Áp dụng biện pháp cưỡng chế, hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 436, theo đó: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử: 1. Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; 2. Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; 3. Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; 4. Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án. đồng thời quy định: Thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 1 Điều này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử.
Về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội theo quy định gồm có hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính gồm có: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính. Đối với mỗi pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung[5].
5. Về những vấn đề cần chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Để truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại các cơ quan chức năng cần phải chứng minh được hành vi phạm tội của pháp nhân. Những vấn đề thuộc lĩnh vực này được quy định tại Điều 441 BLTTHS 2015 gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không; thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của Bộ luật hình sự; lỗi của pháp nhân và của cá nhân là thành viên của pháp nhân đó; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt; nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Như vậy, BLHS và BLTTHS hiện hành đã có những quy định về pháp nhân thương mại phạm tội và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của chủ thể này. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một pháp nhân nào được đưa ra xét xử trước Tòa án. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có thể đề cập đến một số vấn đề như:
– Tại BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã xác định Pháp nhân thương mại là chủ thể có tư cách chủ thể tội phạm bên cạnh cá nhân. Tuy nhiên, tại chương XXIX của BLTTHS 2015 lại quy định về “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân”, trong khi pháp nhân theo quy định gồm có pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Như vậy, quy định của BLHS và BLTTHS có thể nói chưa có sự đồng nhất với nhau, do đó, cần có sự nhìn nhận, đánh giá theo hướng nghiên cứu thống nhất để đảm bảo tính thống nhất giữa luật nội dung và luật hình thức trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
– Tại Khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây là một quy định chưa thực sự đầy đủ, cần sửa lại thành “phạm một hay nhiều tội đã được quy định tại Điều 76 và đáp ứng các điều kiện theo Điều 75 Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự” cho thống nhất với Điều 75 về “Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại” và chính xác với thực tiễn vì có trường hợp PNTM phạm một tội, có trường hợp phạm nhiều tội, một hay nhiều tội đều phải bị xử lý TNHS và để truy cứu thì cần đáp ứng các điều kiện chịu TNHS (ví dụ: PNTM phạm một tội tại Điều 76 nhưng tội phạm đó lại hết thời hiệu truy cứu TNHS, rõ ràng pháp nhân đó lại không phải chịu TNHS).
– Tại Khoản 1 Điều 439 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân chỉ áp dụng khi có căn cứ xác định hành vi phạm tội của pháp nhân gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, môi trường hoặc trật tự, an toàn xã hội…Thời hạn tạm đình chỉ hoạt động của pháp nhân không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn tạm đình chỉ đối với pháp nhân bị kết án không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm pháp nhân chấp hành án”. Do đó, theo như quy định trên thì “thời hạn tạm đình chỉ hoạt động của pháp nhân không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, “quy định này không khác gì hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn . Khắc phục vấn đề này các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn theo hướng là tùy theo hành vi phạm tội của pháp nhân gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, môi trường hoặc trật tự, an toàn xã hội để cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động của pháp nhân thương mại cho phù hợp . Bởi lẽ, việc phải ngừng hoạt động trong lĩnh vực nhất định ảnh hưởng không nhỏ không chỉ đến chính pháp nhân, mà còn ảnh hưởng liên đới đối với người lao động làm việc trong pháp nhân đó.
– Tại Điều 444 BLTTHS năm 2015 quy định, Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự về các tội phạm do pháp nhân thực hiện là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm. Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với pháp nhân phạm tội được thực hiện theo thủ tục chung quy định tại Phần thứ tư và Phần thứ sáu của Bộ luật này. Nghiên cứu vấn đề này thấy rằng, cần có thiết có quy định mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ đối với pháp nhân. Nghĩa là trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm hoặc tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với cá nhân và pháp nhân trong cùng vụ án thuộc về Tòa án nơi cá nhân cư trú hoặc bị bắt. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 cũng cần bổ sung quy định nhập vụ án để điều tra, truy tố đối với cá nhân và pháp nhân trong cùng vụ án. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm cũng đòi hỏi cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần làm sáng tỏ các quan hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật TTHS, để xác định chính xác đối tượng chứng minh trong vụ án có tội phạm do pháp nhân thực hiện, từ đó giải quyết vụ án được khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Trên cơ sở này xác định rõ có dấu hiệu tội phạm hay không; chủ thể của tội phạm có đúng là pháp nhân thực hiện tội phạm hay không; cũng như vấn đề TNHS của cá nhân của các thành viên pháp nhân trong vụ án.
Như vậy, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và BLTTHS năm 2015 đã có nhiều thay đổi lớn trong chính sách hình sự của Nhà nước khi quy định vấn đề về chủ thể pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, để bảo đảm việc áp dụng pháp luật của hai đạo luật này đòi hỏi các nhà làm luật cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, chỉnh sửa, bổ sung những tồn tại, vướng mắc (nếu có) trên phương diện lập pháp hình sự và TTHS, kết hợp với thực tiễn áp dụng trong thời gian tới để hoàn thiện, qua đó bảo đảm mọi hành vi phạm tội của người và pháp nhân thương mại phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng theo quy định của pháp luật./.
ThS. Phan Đức Lợi
Khoa CSHS – Trường Đại học CSND
Tài liệu tham khảo
- Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
- Bộ luật dân sự năm 2015.
[1] Điều 74, Bộ luật Dân sự 2015.
[2] Khoản 2 , Điều 75 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
[3] Điều 2 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
[4] Điều 434 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[5] Điều 33 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Dẫn nguồn theo: Đặc san Phát triển Kinh tế xã hội số (02)18/2022 của Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế xã hội