Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Tóm tắt

Kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế đặc thù như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh… ngày càng phát huy tác dụng. Những rủi ro trong sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM). Vì vậy, công tác quản trị rủi ro (QTRR) thực sự cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng trong hệ thống. Trong bài viết này, tác giả chia sẻ một số gợi ý về giải pháp nâng cao năng lực QTRR tại các NHTM, giúp nhà quản trị Ngân hàng có sự lựa trọn tốt hơn để nâng cao hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng.

Từ khóa: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng thương mại, Quản trị rủi ro

Summary

Doing business in the banking sector is a special type of business with many potential risks. In the market economy, specific economic laws such as the law of value, the law of supply – demand, the law of competition… are increasingly effective. The risks in production and business of the economy directly or indirectly affect the business performance of commercial banks. Therefore, risk management is really necessary for the existence and development of banks in the system. In this article, the author shares some suggestions on solutions to improve risk management capacity at commercial banks, helping bank managers make better choices to improve business efficiency for bank.

Keywords: State Bank of Viet Nam, Commercial Bank, Risk management

SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro

Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế đặc thù như quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh… ngày càng phát huy tác dụng. Những rủi ro trong sản xuất-kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM.

Các Ngân hàng và các Định chế tài chính phi Ngân hàng trước hết là trung gian tài chính – Chúng đứng giữa và “đứng trong vòng vây” của 4 nhóm những người có vốn và cần vốn trong nền kinh tế gồm: Hộ gia đình, Doanh nghiệp, Chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài. Sản phẩm mà các NHTM mua, bán, kinh doanh trên thị trường là các dịch vụ lưu chuyển vốn và các tiện ích Ngân hàng khác. Trong hoạt động tín dụng, cho dù hệ số an toàn vốn có đạt tới 8% thì so với tài sản có, số vốn liếng của bản thân Ngân hàng chỉ là không đáng kể (hoặc nói theo các nhà toán học thì có thể dùng cụm từ “vô cùng nhỏ bé”).

Có thể nói rằng: Hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để thu hút nguồn và dùng năng lực QTRR để sử dụng nguồn và phát triển dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ Ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM do đó bao gồm rất nhiều loại rủi ro. Bởi vậy, nhiều ý kiến cho rằng các Ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro-lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.

Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào mức độ rủi ro

Trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro. Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần phải trích lập quỹ bù đắp rủi ro hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và khả năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Khi rủi ro quá lớn đến mức NHTM mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến phá sản doanh nghiệp.

Quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Trong quản trị NHTM, QTRR là một nội dung quan trọng mà các cấp lãnh đạo, quản lý, điều hành phải đặc biệt quan tâm. Vì vậy, những nhà quản trị NHTM cần được trang bị các kiến thức về QTRR, cung cấp những thông tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ hiệu quả là điều kiện cần thiết để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh – Theo đó, nhiều ý kiến khẳng định:”QTRR là nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực “sống” hay là “chết” của một NHTM”.

MÔT SỐ NHIỆM VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO

Trong QTRR của NHTM, một số nhiệm vụ sau được coi là nhiệm vụ then chốt, quyết định chất lượng của công tác quản trị của Ngân hàng:

Một là, nhận diện và phân loại rủi ro: Phải theo dõi, xem xét môi trường hoạt động kinh doanh và quy trình cho vay để thống kê các dạng rủi ro, nguyên nhân đã xảy ra và dự báo những nguyên nhân tiềm ẩn có thể gây ra rủi ro.

Hai là, đánh giá mức độ rủi ro: Cần thu thập số liệu và phân tích dựa trên các tiêu chuẩn đã đặt ra. Các đối tượng cần đánh giá mức độ rủi ro bao gồm: Nội bộ ngân hàng, khách hàng, danh mục đầu tư.

Ba là, phòng chống và dự phòng rủi ro: Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược và các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, né tránh, giảm thiểu rủi ro.

Bốn là, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh phương pháp phòng chống rủi ro: Việc báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu về rủi ro là công cụ hỗ trợ đắc lực trong công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, QTRR.

CÁC NGUYÊN TẮC CẦN QUÁN TRIỆT TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO NGÂN HÀNG

QTRR ngân hàng được dựa trên hàng loạt những nguyên tắc, trong đó bao gồm một số nguyên tắc cơ bản:

Một là, nguyên tắc chấp nhận rủi ro: Các nhà quản trị Ngân hàng cần phải chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như mong muốn có được thu nhập phù hợp từ những hoạt động nghiệp vụ của mình. Dĩ nhiên, mỗi nghiệp vụ cụ thể sau khi đánh giá mức độ rủi ro các NHTM cần xây dựng chiến thuật “phòng chống rủi ro”; tuy nhiên, loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong hoạt động ngân hàng là không thể, bởi vì rủi ro ngân hàng – là sự hiện hữu khách quan vốn có trong các nghiệp vụ của Ngân hàng. Do đó, nguyên tắc đầu tiên trong quá trình QTRR đối với các nhà quản trị ngân hàng là phải nhận biết những “rủi ro cho phép”. Việc chấp nhận mức độ, loại rủi ro ngân hàng nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng trong quá trình quản lý rủi ro.

Hai là, nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép: Đòi hỏi phần lớn rủi ro trong “gói rủi ro cho phép” phải có khả năng điều tiết trong quá trình quản lý, mà không phụ thuộc vào những hoàn cảnh khách quan và chủ quan của nó. Chỉ đối với những loại rủi ro như vậy thì các nhà quản trị ngân hàng mới có thể sử dụng tất cả những “vũ khí”, “nghệ thuật” của mình để điều tiết chúng. Ngoài ra, đối với các loại rủi ro không có khả năng “điều chỉnh” cần phải được chuyển đẩy sang các công ty bảo hiểm bên ngoài.

Ba là, nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt: Một trong những nguyên lý cơ bản của lý thuyết QTRR là các loại rủi ro khá độc lập với nhau và sự thiệt hại do một loại nào đó trong “gói rủi ro cho phép” gây nên không nhất thiết sẽ làm tăng xác suất xảy ra với các loại rủi ro khác. Nói cách khác, về nguyên tắc sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác nhau gây nên là khá độc lập với nhau và quá trình quản lý chúng cần phải được điều tiết riêng biệt, không thể gộp các loại rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra cùng một phương pháp điều hành.

Bốn là, nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập: Là nền tảng của lý thuyết QTRR. Các ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại, mức độ rủi ro mà thiệt hại khi chúng xảy ra ở mức không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Có nghĩa rằng, tất cả các loại rủi ro có mức độ rủi ro cao hơn mức độ thu nhập mong đợi cần phải được loại bỏ.

Năm là, nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính: Giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro phải phù hợp với phần vốn mà ngân hàng có thể trích dự phòng cho những thiệt hại khi chúng xảy ra. Khi rủi ro xảy ra, nó kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm tiềm năng lợi nhuận và nhịp độ phát triển của ngân hàng trong tương lai. Do đó, giá trị thiệt hại phải phù hợp với mức vốn dự phòng của ngân hàng và ngân hàng phải xác định được mức độ (dự báo) phù hợp, bao gồm cả những khoản rủi ro không thể chuyển được sang cho đối tác hay các công ty bảo hiểm bên ngoài.

Sáu là, nguyên tắc hiệu quả kinh tế: Mục đích cơ bản của việc quản lý rủi ro ngân hàng là điều tiết những tác động tiêu cực của rủi ro khi xảy ra. Cùng với điều này, chi phí của ngân hàng bỏ ra để điều tiết phải thấp hơn giá trị thiệt hại do những rủi ro ngân hàng có khả năng xảy ra và thậm chí ở mức độ giá trị cao nhất khi chúng xảy ra.

Bảy là, nguyên tắc hợp lý về thời gian: Thời gian tồn tại của một nghiệp vụ ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra rủi ro càng lớn, khả năng điều tiết những tác động tiêu cực của nó và tính kinh tế của QTRR càng thấp. Khi bắt buộc phải tồn tại các nghiệp vụ này thì ngân hàng phải đảm bảo có mức độ thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi nhuận mà còn vì mục đích bù đắp những chi phí để điều tiết tác động của rủi ro trong trường hợp chúng xảy ra.

Tám là, nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của Ngân hàng: Hệ thống QTRR cần phải được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến lược phát triển của ngân hàng cũng như các chính sách điều hành từng hoạt động riêng biệt của ngân hàng.

Chín là, nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép: Đòi hỏi các loại rủi ro nằm trong “gói rủi ro cho phép” phải có khả năng/tính chuyển đẩy cao. Các loại rủi ro không tương thích với khả năng của ngân hàng trong việc điều tiết những hậu quả tiêu cực khi chúng xảy ra hay không phù hợp với những yêu cầu cụ thể của chiến lược và chính sách điều hành hoạt động của ngân hàng cần phải được loại bỏ khỏi “gói rủi ro cho phép”. Hay nói cách khác, chúng chỉ được cho vào khi có khả năng chuyển đẩy cao sang các đối tác hoặc các công ty bảo hiểm bên ngoài.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Tình hình nợ xấu và chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, tín dụng hệ thống ngân hàng tăng 14,5% trong 2022, cao hơn mức cùng kỳ năm ngoái (13,6%), hầu hết ngân hàng đều có lợi nhuận tăng trưởng dương trong năm 2022. Tại thời điểm cuối năm 2022 nợ xấu nội bảng dưới 2% (1,92%), tuy nhiên, trong hệ thống, nhiều ngân hàng vừa công bố kết quả kinh doanh quý IV và cả năm 2022 không khả quan, cho thấy nợ xấu đang có diễn biến gia tăng, dù tỷ lệ dự phòng giảm. Trước kịch bản nợ xấu gia tăng, nhiều ngân hàng đẩy mạnh việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cho các khoản nợ xấu tiềm ẩn. Trong đó, các ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt, lợi nhuận cao thường có nhiều dư địa để trích lập dự phòng, giữ tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao, điển hình như Vietcombank, BIDV, VietinBank… Một số ngân hàng đạt mức lợi nhuận trước thuế cao song vẫn khó tránh nợ xấu duy trì ở mức tương đối cao.

Ngân hàng Lợi nhuận năm 2022 (tỷ đồng) Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tại thời điểm 31/12/2022
TPBank 7.828 2,88%
Bản Việt 456 2,79%
PGBank 506 2,56%
VIB 10.581 2,45%
VPBank 14.364 2,19%
Saigonbank 237 2,12%
LienVietPostBank 5.690 1,46%

Nguy cơ gia tăng các khoản nợ xấu một phần xuất phát từ việc sau khi thời gian cơ cấu thời hạn trả nợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Thông tư số 14/2021/TT-NHNN kết thúc vào 30/6/2022. Tỷ lệ nợ xấu điều chỉnh (nợ xấu nội bảng và trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành) tại thời điểm 30/9/2022 của toàn ngành là khoảng 2,6%, tăng nhẹ so với mức 2,5% hồi đầu năm. Nhiều ngân hàng lớn cũng tăng nhẹ tỷ lệ nợ xấu từ 0,1 – 0,3 điểm phần trăm. Ngoài ra, theo đánh giá cũng cho rằng, chất lượng các khoản lãi và phí phải thu đáng báo động ở nhóm ngân hàng có chất lượng tín dụng thấp, các ngân hàng có vòng quay khoản lãi và phí phải thu trung bình khoảng 30 đến 60 ngày, một số ngân hàng có các khoản lãi và phí phải thu chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng tài sản, trong khi vòng quay lại rất dài (lên tới hơn 250 ngày) trong suốt nhiều năm liền, đây là dấu hiệu cho thấy các khoản phải thu này tiềm ẩn nhiều nguy cơ trở thành nợ khó đòi và các số liệu kế toán chưa phản ánh chính xác chất lượng tài sản của ngân hàng.

Ngược lại đã có không ít ngân hàng giảm mạnh tỷ lệ nợ xấu trong năm qua. Bên cạnh những ngân hàng có nợ xấu tăng cao mà kết quả chưa cập nhật đầy đủ, một số ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính cũng cho thấy, vẫn giữ được tỷ lệ nợ xấu nội bảng thấp. Trong hệ thống có đến 7 ngân hàng giữ được tỷ lệ nợ xấu ở dưới 1% và 2 ngân hàng đạt tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu trên dưới 300%, điển hình là Vietcombank, MB, ACB, Techcombank, BacABank, TPBank.

Tính đến cuối năm 2022, nợ xấu nội bảng của Vietcombank ở mức 7.808 tỷ đồng, tăng 27,6% so với hồi đầu năm; tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay cuối năm 2022 ở mức 0,68%, giảm so với mức 0,8% cuối quý 3/2022 và tăng nhẹ so với hồi đầu năm nay là 0,64%; chất lượng tài sản của Vietcombank còn được đánh giá cao bởi bộ đệm dự phòng rủi ro tín dụng; tỷ lệ bao phủ nợ xấu của ngân hàng cuối năm 2022 tiếp tục cao nhất hệ thống, đạt 317%. ACB ghi nhận năm thứ 7 liên tiếp duy trì tỷ lệ nợ xấu ở dưới mức 1%; tổng nợ xấu của nhà băng này cuối năm 2022 là 3.033 tỷ đồng, chiếm 0,74% trong tổng dư nợ cho vay; tỷ lệ này giảm so với mức 0,78% của năm 2021; cơ cấu tín dụng của ACB chủ yếu tập trung vào bán lẻ và không có trái phiếu doanh nghiệp, giúp danh mục của nhà băng này ít chịu ảnh hưởng tiêu cực trong năm vừa qua, khi thị trường trái phiếu và bất động sản gặp nhiều khó khăn; tỷ lệ bao phủ nợ xấu của ACB hiện ở mức 155%, cũng thuộc nhóm cao trên thị trường. Ngoài ra, một ngân hàng khác cũng có tỷ lệ nợ xấu dưới 1% và tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu rất cao, xấp xỉ 300% là MB; báo cáo tài chính của ngân hàng này cho thấy, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hợp nhất, bao gồm cho vay tiêu dùng được kiểm soát ở mức 1,09%, trong khi của ngân hàng riêng lẻ chỉ 0,83%; tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu của ngân hàng hợp nhất đạt 238% và ngân hàng riêng lẻ là xấp xỉ 300%. Tương tự, tỷ lệ nợ xấu tại Techcombank có xu hướng tăng trong năm qua, tuy nhiên vẫn nằm trong nhóm thấp nhất hệ thống; tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2022 của nhà băng này là 0,9%, tăng so với 0,6% năm 2021; tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu đạt 125%. Nợ xấu BacABank tại thời điểm cuối năm qua cũng cải thiện so với đầu năm; tổng nợ xấu tại ngày 31/12/2022 giảm 24%, còn gần 500 tỷ đồng; trong đó, giảm mạnh nhất là nợ dưới tiêu chuẩn và nợ có khả năng mất vốn; kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm từ 0,77% xuống còn 0,53%.

Theo đánh giá, NHNN sẽ tiếp tục chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm 2023-2024, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô vẫn nhiều biến động, thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương Mỹ còn gây áp lực lên tỷ giá và lãi suất, và áp lực lạm phát. Cùng với tình trạng căng thẳng thanh khoản, ngành ngân hàng sẽ phải đối mặt với chi phí vốn tăng trong năm tới. Lãi suất liên ngân hàng đã tăng mạnh trong những tháng cuối năm do NHNN hút tiền đồng từ hệ thống để cân đối tỷ giá; doanh nghiệp mua lại trái phiếu trước hạn; và sự kiện xoay quanh Ngân hàng SCB. Tuy đã hạ nhiệt, dự báo lãi suất liên ngân hàng sẽ tiếp tục ở quanh vùng 5-6% cho kỳ hạn qua đêm. Liên quan đến lãi suất huy động, sau khi NHNN tăng lãi suất điều hành 2 điểm phần trăm trong 2 quý cuối năm 2022, các NHTM đã nhanh chóng nâng mạnh lãi suất huy động ở mọi kỳ hạn. Sang 2023, khi chi phí vốn của ngành ngân hàng sẽ tăng mạnh khiến cho biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng cũng sẽ thu hẹp. Do đó, việc nâng cao chất lượng công tác QTRR sẽ càng được các NHTM quan tâm.

Một số kết quả tích cực

Một là, Chiến lược, chính sách định hướng cho hoạt động QTRR ngày càng rõ ràng và mang tính thực tiễn: Phần lớn các ngân hàng đã xây dựng được các định hướng chiến lược trong cấp tín dụng. Hàng năm, các ngân hàng đều có chính sách ưu tiên, chú trọng phát triển tín dụng cho một số ngành phù hợp với chính sách phát triển kinh tế và thị trường mục tiêu của ngân hàng. Điều này hết sức quan trọng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định.

Hai là, Bắt đầu hình thành mô hình tổ chức theo hướng tập trung cho QTRR: Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã đưa ra nhiều quy định mới về tổ chức quản trị điều hành trong ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng đã xây dựng được mô hình tổ chức theo thông lệ quốc tế và chú trọng đến công tác QTRR. Cụ thể, tất cả các ngân hàng đều hình thành Ủy ban Quản lý rủi ro, với vai trò tư vấn cho Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên trong vấn đề liên quan đến QTRR.

Ba là, Xây dựng được quy trình cấp tín dụng chặt chẽ, tạo điều kiện để kiểm soát rủi ro ngay từ khi mới xuất hiện: Mặc dù, có sự khác nhau giữa các ngân hàng, nhưng về cơ bản quy trình tín dụng đều đã được các ngân hàng xây dựng hết sức chặt chẽ, bao gồm nhiều bước đi cụ thể, có sự nối kết, kế thừa và mang nội dung kiểm soát lẫn nhau giữa các bước/các khâu trong quy trình. Trong khâu thẩm định/phân tích tín dụng – một nội dung của quy trình tín dụng, các ngân hàng đã chú trọng phân tích tình hình hoạt động của người vay, nghiên cứu, nâng cao chất lượng thẩm định các khoản vay, các dự án đầu tư, chú ý phân tích hiệu quả và các yếu tố tác động đến dự án để thấy được rủi ro của khoản vay. Thực hiện tốt việc kiểm tra tín dụng, phối hợp tốt với kiểm soát nội bộ trong việc kiểm tra chéo.

Bốn là, Xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm đo lường rủi ro giao dịch tín dụng: Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thường được cấu trúc riêng biệt đối với ba nhóm đối tượng khách hàng chính, bao gồm: Nhóm khách hàng doanh nghiệp (doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp tiềm năng), nhóm khách hàng cá nhân/hộ kinh doanh và nhóm khách hàng là định chế tài chính. Mặc dù hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chỉ giúp ngân hàng đo lường rủi ro giao dịch, chưa đánh giá được rủi ro danh mục tổng thể, nhưng việc xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cũng cho thấy bước tiến mới của các ngân hàng trong tiến trình vận dụng các chuẩn mực quốc tế về QTRR vào điều kiện cụ thể tại Việt Nam.

Một số tồn tại, hạn chế

Một là, Môi trường QTRR chưa đáp ứng được các yêu cầu của Ủy ban Basel và thông lệ quốc tế: Trước hết, phải đề cập đến việc hoạch định chiến lược còn khá đơn giản, hầu hết chỉ mang nội dung định hướng phát triển chung, chưa đưa ra được một danh mục tín dụng, kế họach cụ thể; trong đó tỷ trọng dư nợ từng ngành, từng khu vực, từng đối tượng chưa được xây dựng cụ thể nhằm hạn chế rủi ro tập trung. Bên cạnh đó, các mục tiêu đặt ra cũng chỉ ở mức đơn giản, thông qua các con số về tốc độ tăng trưởng tín dụng cho toàn ngân hàng, tỷ trọng nợ xấu/ nợ quá hạn cần khống chế, hoặc được xử lý. Mức độ tổn thất tín dụng thể hiện “khẩu vị rủi ro” của ngân hàng không được cụ thể hóa cho từng ngành, từng khu vực thị trường, từng loại sản phẩm tín dụng.

Hai là, Duy trì mô hình tổ chức quản trị phân tán, chưa tách bạch các chức năng dễ dẫn đến xung đột quyền lợi trong QTRR: Ở một số ngân hàng, chức năng của bộ phận QTRR cũng chưa được hiểu đúng. Tình trạng bộ phận QTRR tham gia vào trong khâu thẩm định/tái thẩm định tín dụng không phải chỉ có ở những ngân hàng nhỏ, mà ngay tại các ngân hàng lớn như BIDV hay Vietinbank vẫn tồn tại. Điều đó cho thấy chưa thực sự tách biệt giữa chức năng tạo rủi ro (tác nghiệp) và chức năng QTRR, tính độc lập của QTRR chưa được đảm bảo, dẫn đến hiệu quả quản trị thấp.

Ba là, Chưa có một hệ thống đo lường rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế: Mỗi thành phần rủi ro có một cách thức đo lường riêng. Ủy ban Basel trong Hiệp ước Basel II đã khuyến khích các ngân hàng dùng mô hình nội bộ để đo lường rủi ro riêng biệt của ngân hàng mình. Nhiều ngân hàng tại các nước phát triển đã sử dụng các mô hình khác nhau để đo lường rủi ro, từ đó tiến hành trích lập dự phòng hoặc tính mức vốn tương xứng để bù đắp cho tổn thất. Tuy nhiên, các mô hình này chưa được áp dụng tại Việt Nam.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Một số gợi ý về giải pháp mang tính tổng thể góp phần nâng cao năng lực QTRR tại các NHTM trong điều kiện phát triển và hội nhập:

Phải kịp thời nghiên cứu đưa vào áp dụng mô hình QTRR phù hợp với các quy định hiện hành, đặc điểm hoạt động của từng NHTM và thông lệ quốc tế

Các NHTM cần phải nhanh chóng hình thành hệ thống QTRR theo nguyên tắc tập trung, ngành dọc, đảm bảo tính độc lập của hệ thống này với hệ thống kinh doanh. Bộ phận chịu trách nhiệm về rủi ro tín dụng sẽ là bộ phận của hệ thống này. Nhanh chóng hoàn hiện mô hình tổ chức Ban Quản lý rủi ro của từng NHTM theo nguyên tắc: Ban Quản lý rủi ro hoạt động độc lập với các ban khác, chịu sự điều hành trực tiếp của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Đồng thời cần xây dựng và ban hành quy chế, điều lệ hoạt động của Ban Quản lý rủi ro với các cơ quan, phòng ban chức năng nghiệp vụ trong và ngoài hệ thống. Xây dựng hệ thống các chuẩn mực, các quy trình phòng ngừa và xử lỷ rủi ro, đặc biệt là chú trọng các giải pháp dự báo và phòng ngừa rủi ro. Chỉ chấp nhận các loại rủi ro cho phép đối với từng nghiệp vụ sau khi đã phân tích chi tiết trên tất cả các khía cạnh Luật pháp và kinh tế.

Tăng cường quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ. Nâng cao chất lượng về cả trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của cán bộ Ngân hàng

Đã đến lúc các ngân hàng nên coi chiến lược quản lý nguồn nhân lực là một nội dung trọng tâm. Thực tế chứng tỏ rằng, mặc dù nhiều điều luật và các quy trình quy chế có được ban hành, nhưng nếu thiếu những cán bộ có năng lực và đạo đức nghề nghiệp vụ thì mọi vấn đề vẫn còn đó.

– Trước tiên cần có văn bản quy định rõ ràng chức năng nhiệm vụ của tất cả các đơn vị, phòng ban và sau đó là mô tả từng vị trí công việc trong ngân hàng. Căn cứ vào đó NHTM có thể đánh giá và phân loại toàn bộ các vị trí công việc đưa ra các yêu cầu về kỹ năng và kiến thức cho cán bộ đảm nhiệm công việc đó. Trên cơ sở những tiêu chuẩn và yêu cầu chung đó mà tổ chức các chương trình đào tạo nhân lực thích hợp.

– NHTM phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng kiến thức dưới nhiều hình thức (tập trung, không tập trung, trong và ngoài nước) để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro cho cán bộ, đảm bảo ngày càng tăng cường các kiến thức về kinh tế thị trường và nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Đặc biệt đối với cán bộ tín dụng họ phải được đào tạo thường xuyên để cập nhật đầy đủ các kiến thức về Luật, quản lý tài chính, về hoạt động ngân hàng… để có thể hiểu, nhận biết, phân tích và kiểm soát được rủi ro có thể phát sinh trong phạm vi công việc của mình.

– Có chính sách cán bộ quản lý, tứng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ, thực hiện chuyên môn hóa trong việc sử dụng cán bộ. Công tác đánh giá khả năng và hiệu quả làm việc phải được tiến hành tại mỗi đơn vị theo chương trình do Hội sở chính chỉ đạo. Theo lời khuyên của các chuyên gia về QTRR thì không có phương pháp phân tích phức tạp nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá chuyên môn trong QTRR. Do đó, để QTRR hiệu quả, các NHTM cần trang trị cán bộ chuyên môn hóa và kinh nghiệm về QTRR.

– Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng tác phong làm việc ý thức tuân thủ quy chế, chống lại các rủi ro đạo đức trong quá trình hoạt động.

– Xây dựng chế độ khen thưởng phù hợp, kết hợp khyến khích vật chất và tinh thần đề cao trách nhiệm cá nhân và gắn trách nhiệm của cán bộ với các nghiệp vụ giao dịch thực hiện. Đồng thời có chế độ kỷ luật thích đáng với cán bộ sai phạm, mạnh dạn đưa ra khỏi ngành các cán bộ yếu kém, tha hóa về đạo đức.

Chú trọng hơn nữa đến đầu tư công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, đo lường rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng

Thông tin về khách hàng là cơ sở quan trọng để ngân hàng có những quyết định đúng đắn khi cho vay và tài trọc thương mại đồng thời cũng là cơ sở nhận định và lượng hóa các rủi ro có thể xảy ra đặc biệt là trong “thời đại thông tin” như hiện nay. Công tác QTRR đòi hỏi rất nhiều thông tin cả trong và ngoài ngân hàng, khối lượng thông tin cần thu thập và xử lý nhiều, mặt khác yêu cầu thông tin là phải cập nhật là được phân loại theo những tiêu thức hợp lý để phục vụ kịp thời yêu cầu quản trị điều hành, do vậy để công tác QTRR đạt hiệu quả như mong muốn thì công nghệ thông tin phải được chú trọng đầu tư.

Để phục vụ yêu cầu quản lý cần có hệ thống công nghệ thông tin gồm các chương trình phần mềm thích hợp  để khai thác và phân tích thông tin. Thực tế cho thấy không thể đưa ra những kết luận, những nhận định chung chung mà các kết luận hay nhận định phải được đưa ra từ kết quả phân tích số liệu một cách khoa học. Bởi vậy việc trang bị các trang thiết bị công nghệ thông tin hiện đại thích hợp với tính chất và quy mô công việc nhằm truy cập và xử lý một khối lượng thông tin rất lớn bằng các kỹ thuật tính toán và phân tích hiện đại là rất cần thiết.

Các NHTM cần thiết lập và hoàn thiện mạng thông tin nội bộ (intranet); xây dựng hệ thống thông tin quản lý (MIS) đưa các thông tin liên quan đến QTRR nói chung và QTRR tín dụng nói riêng như: thông tin về nền kinh tế, thị trường, lãi suất, thông tin vể rủi ro trong hoạt động của các NHTM, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm… Làm như vậy sẽ góp phần hạn chế được các rủi ro trong quá trình tác nghiệp do thông tin không cân xứng.

Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng trong toàn hệ thống

Bộ phận kiểm soát nội bộ hay còn được gọi là kiểm soát tổng hợp của NHTM phải được tổ chức độc lập hoàn toàn với tất cả các bộ phận khác và chỉ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban điều hành. Các kiểm soát viên cần được trang bị đầy đủ những điều kiện và phương tiện cần thiết để làm việc đặc biệt là sự trợ giúp ủng hộ vô điệu kiện của Hội đồng quản trị và Ban điều hành để có thể thực hiện tốt quyền kiểm soát của mình đối với tất cả các bộ phận khác trong ngân hàng. Quyền hạn và trách nhiệm của Ban kiểm soát phải được xác định rõ ràng và phải được phân bổ những cán bộ có năng lực và làm việc công tâm. Ban kiểm soát có nhiệm vụ:

– Theo dõi sự chấp hành các quy chế Nhà nước hiện hành cũng như trong nội bộ ngân hàng thông qua việc thẩm tra tất cả các yếu tố có nghi vấn.

– Đảm bảo công tác kiểm tra hoạt động của các chi nhánh và sự chấp hành mức ủy quyền phán quyết.

– Góp phần xác định và quản lý hạn mức rủi ro.

– Xây dựng văn hóa phòng ngừa rủi ro trong toàn hệ thống ngân hàng.

Kiểm soát nội bộ phải là người bảo vệ ngân hàng, đảm bảo cho các quy trình, quy chế đã ban hành được áp dụng có hiệu quả. Ngoài ra Ban kiểm soát còn có vai trò phòng ngừa rủi ro và xác định những vùng rủi ro đối với các hoạt động của ngân hàng; mục tiêu của nó là giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra với ngân hàng.

Sử dụng các nghiệp vụ tài chính phát sinh để hạn chế rủi ro ngân hàng

Để phòng ngừa những rủi ro trong hoạt động của mình đưa lại, các ngân hàng thường sử dụng các nghiệp vụ tài chính phát sinh nhằm hạn chế những rủi ro này, nhưng đối với các NHTM Việt Nam các nghiệp vụ này còn rất mới mẻ, vì thế việc nghiên cứu và áp dụng các nghiệp vụ này trong quản lý là biện pháp hữu hiệu để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra mang lại hậu quả xấu cho các NHTM và cả nền kinh tế. Dưới đây xin đề cập đến một số nghiệp vụ phái sinh chuẩn và không chuẩn hay còn gọi là công cụ phái sinh độc lập và công cụ phái sinh “được gắn thêm” hiện đang được giao dịch phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế:

– Hợp đồng mua bán trước (còn gọi là công cụ kỳ hạn): là một thoả thuận mua hoặc bán một tài sản (hàng hoá hoặc các tài sản tài chính) tại một thời điểm trong tương lai với một giá đã xác định trước.

– Hợp đồng mua bán trong tương lai: là một công cụ tài chính phái sinh tương tự như hợp đồng mua bán trước.

– Hợp đồng quyền chọn (quyền chọn mua hoặc bán): được thực hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1973, từ đó thị trường này phát triển tăng vọt và ngày nay được thực hiện trên khắp thị trường tài chính thề giới. Hợp đồng quyền chọn được thực hiện với các hoạt động mua, bán: cổ phiếu, chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công cụ nợ, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng hoá.

– Nghiệp vụ hoán đổi: là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh toán. Thông thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc.

– Một số công cụ phái sinh khác: Hợp đồng quyền chọn lãi suất chặn trên và chặn hai đầu; Nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ.

KẾT LUẬN

Thời gian qua, công tác QTRR tại các NHTM Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện, nhiều kết quả tích cực đã được ghi nhận, song vẫn còn không ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. Tại bài viết này, tác giả có một số đánh giá về chất lượng QTRR tại các NHTM tại Việt Nam và xin gợi ý một số giải pháp mang tính tổng thể góp phần nâng cao năng lực QTRR tại các NHTM trong điều kiện phát triển và hội nhập, mong muốn giúp các nhà quản trị Ngân hàng có cái nhìn rõ và lựa trọn tốt hơn trong việc quản trị hoạt động Ngân hàng.

Tài liệu tham khảo:

  1. Văn phòng Quốc hội (2017), Văn bản hợp nhất Luật Các tổ chức tín dụng.
  2. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (2004), Basel II.
  3. Website của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, http://www.sbv.gov.vn/.

Tác giả: TS. Đặng Vũ Hùng

Đặc san phát triển kinh tế – xã hội số 21

Trả lời